Những năm gần đây có
khá nhiều sinh viên Việt
Thông tin về làm thế nào để xin học bổng, TA, RA, xin thư
giới thiệu, cách viết dự định cá nhân (personal statement), vân vân đầy rẫy
trên các mailing lists trên Internet.
Thế nhưng, một số câu hỏi quan trọng mà tôi ít thấy sinh viên hỏi là: "tại
sao lại học Ph.D?", "có đáng bỏ thời gian học Ph.D hay không?",
"làm thế nào để đánh giá mảnh bằng Ph.D?", "tôi có đủ khả năng
để học Ph.D hay không?", "học Ph.D xong rồi làm gì?",
vân vân.
Có lẽ ta cần một luận án ... Ph.D để trả lời phần nào
thỏa đáng các câu hỏi trên. Cũng có lẽ có ai đó trong các ngành giáo dục hay
tâm lý học đã làm rồi. Về mặt kinh tế thì một người bạn cho tôi biết đã có cả
mớ công trình nghiên cứu về “cái giá của giáo dục” (returns to education).
Trong bài viết này, tôi thử lạm bàn lan man xung quanh
các câu hỏi trên. Bài viết hoàn toàn không mang tính hàn lâm
(academic), nghĩa là sẽ không có các con số thống kê, bảng phân tích, để ủng hộ
một (vài) luận điểm nào đó. Sẽ không có tham khảo đến
các nguồn thông tin tín cẩn và các thứ tương tự. Tác
giả chỉ dựa trên các kinh nghiệm, quan sát, và suy nghĩ cá nhân, sau gần chục
năm học và "hành nghề" Ph.D ở Mỹ.
Tôi chắc
là một cá nhân khác trong hoàn cảnh của tôi sẽ có không ít ý kiến bất đồng. Tôi cũng không có tham vọng nói
hết được những cóp nhặt kinh nghiệm của mình. Ngoài
ra, tôi sẽ nhấn mạnh nhiều hơn mặt trái của việc học Ph.D.
Ðiều tôi hy vọng là qua bài viết này, tôi có thể giúp cho các sinh viên (cùng
gia đình) sẽ và đang học Ph.D ít nhiều chuẩn bị tinh thần cho đoạn đường chông
gai nhưng thú vị này; hy vọng chỉ ra được một góc nhìn khác về Ph.D so với quan
niệm chung của xã hội.
Trước hết
ta hãy thử bàn về mảnh bằng Ph.D từ cái nhìn hàn lâm. Ph.D là viết tắt của chữ Doctor of
Philosophy. Học bậc Ph.D, cao nhất trong các học bậc,
đầu tiên xuất hiện ở Ðức, sau đó được Mỹ và nhiều nước phương tây khác sử dụng.
Bằng Ph.D đầu tiên của Mỹ xuất hiện khoảng cuối thế kỷ 19.
(Ơ Y' cho đến những năm 1980 mới có bằng Ph.D.)
Từ Ph.D có gốc latin là Philosophiae Doctor. Chữ doctor nghĩa là "thầy" (teacher), và "chuyên
gia", "chức trách" (authority). Chữ philosophy (triết
học) có nguồn gốc từ thời trung cổ (medieval) ở Châu Ảu, khi mà các trường đại
học có bốn chuyên khoa (faculty) chính: thần học (theology), luật học (law), y
học (medicine), và triết học (philosophy). Philosophy ở đây
dùng để chỉ các ngành học không dẫn đến một nghề nghiệp thực tế nhất định của
thời đó như người của nhà thờ, luật sư, và bác sĩ.
Ðến nay thì không phải Ph.D nào cũng liên quan đến philosophy, cho dù lấy theo nghĩa bóng nhất của từ này. Tuy nhiên
chữ doctor vẫn mang đầy đủ ý nghĩa của nó. Ở phương
Tây, trong nghi thức giao tiếp người ta gọi một người có bằng Ph.D là doctor.
Hầu hết các trường đại học đều đòi hỏi toàn bộ giảng viên và
các giáo sư có bằng Ph.D. Ða số các nhà nghiên cứu ở các phòng nghiên cứu
chuyên nghiệp đều có bằng Ph.D.
Tuy vậy, điều ngược lại không đúng: không phải tất cả các Ph.D đều có thể làm
giảng viên, giáo sư, hay nghiên cứu viên. Có những Ph.D thậm
chí chẳng bằng một kỹ sư thông thường. Cũng có khá nhiều Ph.D, sau khi
"hành nghề" một thời gian thì lên chức, hoặc chuyển sang làm salesman
hoặc làm quản lý, vân vân. Ta sẽ quay lại đề tài này sau.
Cái nhìn hiện đại của Ph.D như sau. Ðể hoàn tất Ph.D, sinh
viên phải đạt được hai mục tiêu chính: (a) hoàn toàn tinh thông một ngành (hoặc
phân ngành) nào đó, và (b) góp phần mở rộng khối kiến thức của nhân loại về
ngành đó.
Mục tiêu (b) là cái lõi để phân biệt bậc Ph.D với các bậc học
khác. Ph.D không phải là cái bằng "nhai lại": đọc nhiều, thi
lấy điểm cao là xong. Một Ph.D đúng nghĩa phải có một vài
công trình và ý tưởng nghiên cứu của riêng mình (originality).
Về mặt lý thuyết thì là thế. Thực tế
ra sao?
Ở Mỹ, là
sinh viên sau đại học (graduate student) cũng là một nghề. (Tôi không dùng từ "nghiên cứu sinh" vì
không phải graduate student nào cũng làm nghiên cứu thực thụ, nhất là các sinh
viên đang học thạc sĩ.) Các graduate students thường
làm TA hoặc RA, với mức lương khoảng 900USD đến 1200USD một tháng (sau thuế),
tiền học được bao. Sống tằn tiện thì mức lương này vừa đủ một
người sống. Thường thì các gradudate students sống chui rúc trong một
căn hộ nhỏ bé nào đó (dĩ nhiên là có ngoại lệ, đa phần do may
mắn), hầu hết thời gian dùng ở các phòng lab (phòng thí nghiệm hoặc phòng máy
tính) và thư viện. Tối về đến nhà là lăn ra ngủ để rồi
sáng mài mèo con lại hớn hở bút chì bánh mì lên đường.
Kể chuyện cuộc sống gradudate students thì có lẽ cần
một tiểu thuyết vài trăm trang. Ðiều tôi muốn đề cập là: trong hoàn cảnh làm
việc căng thẳng như vậy, một sinh viên thông thường thỉnh thoảng sẽ phải tự đặt
câu hỏi "có đáng không?" Nhất là khi công việc học
tập và nghiên cứu không trôi chảy. Mà kể cả khi nó
hoàn toàn trôi chảy, tính về các mặt kinh tế, tinh thần, thời gian, và ...
philosophy, câu hỏi trên vẫn hoàn toàn hợp lệ.
Về mặt kinh tế thì lương trung bình của Ph.D ra trường có nhỉnh hơn thạc sĩ
(M.S) và bậc đại học (B.S) một chút, nhưng sự khác biệt này không khỏa lấp được
lỗ lã cho thu nhập đã mất trong khoảng thời gian làm Ph.D: trung bình từ 4 đến
5 năm. Tính tổng số USD kiếm được cho mỗi giờ học tập thì Ph.D là hạng bét
(tính tương đối theo từng ngành học).
Về mặt tinh thần thì làm việc căng thẳng và cật lực trong một
thời gian dài trong một môi trường cạnh tranh tương đối công bằng nhưng khắc
nghiệt (!) hoàn toàn có thể ảnh hưởng xấu đến tâm lý cá nhân. Ðiều này
đặc biệt đúng với sinh viên du học: thiếu thốn các nhu cầu văn hóa và tinh thần
cơ bản của quê hương, cơ hội tìm bạn tình hoặc bạn đời bị giảm thiểu (với phái
nam), vân vân. Không phải hiếm mà người ta hay thấy bọn Ph.D hơi ... gàn gàn.
Công bằng mà nói, gradudate students do thiếu thốn văn hóa hay tìm cách nghiên
cứu học hỏi thêm cái này cái khác ngoài ngành của mình (nhạc, thơ, lịch sử,
chính trị, triết học, ...), cho nên bọn gàn cũng có
thể rất đa tài. Ở Mỹ thì địa vị xã hội của một Ph.D cũng
chẳng hơn gì các nghành nghề khác là mấy.
Yếu tố tinh thần này rất quan trọng. Có không ít các gradudate students cần đến 8, 9 năm mới làm xong
Ph.D. Nhiều năm trời "ở mãi kinh kỳ với bút nghiên", ngoảnh đi ngoảnh
lại chưa làm được gì ra hồn mà đã ngoài 30. Khi thị trường việc cho Ph.D
bị thuyên giảm thì người ta rơi vào cái vực muôn thuở: "về hay ở",
"về thì đâm đầu vào đâu?". Nhiều năm làm việc với mức lương vừa đủ sống, các Ph.D mới ra
trường hoàn toàn không dành giụm được gì, chưa nói đến việc nợ thẻ tín dụng kha
khá. Dù các nhà chức trách đã có kế hoạch đãi ngộ nhân
tài, chế độ này vẫn còn xa rời thực tế. Ðầu tư tinh
thần và thời gian của một Ph.D quá nhiều để có thể hài lòng với một công việc
một vài triệu đồng một tháng. Họ sẽ phải tự hỏi: nếu xưa mình không đi
học thì bây giờ cũng có thể đã phây phây lương vài triệu một tháng? Vậy cả chục năm trời bỏ ra công cốc à? Tôi
đã nhập nhằng yếu tố tinh thần và kinh tế, nhưng đôi khi ta không tách rời
chúng được.
Một khía cạnh khác của yếu tố tinh thần là sức ép của gia
đình và người thân. "Người ta 4 năm đã xong Ph.D, vợ con nhà cửa
đàng hoàng, bọn không Ph.D thì cũng giám đốc với trưởng phòng, xây nhà to cửa
rộng cho bố cho mẹ; còn mày bây giờ ngoài 30 mà vẫn cứ lông bông tay trắng. Ông chẳng ra ông, thằng chẳng ra thằng".
Về mặt triết học mà nói thì có đáng học Ph.D không?
Câu hỏi này phụ thuộc rất nhiều vào bản thân sinh viên: đi học Ph.D để làm gì?
Ta sẽ quay lại điểm này trong phần tới.
Bây giờ hãy giả dụ cô/anh Ph.D yêu dấu của ta tìm được một công việc ổn định ở
nước ngoài, quyết định ở lại tích lũy tư bản giúp gia đình và tích lũy kinh
nghiệm để sau
này, cách này hay cách khác, (về) giúp quê hương. Có hai nhánh công việc chính
cho một Ph.D mới ra trường: (a) làm việc ở một phòng nghiên cứu chuyên nghiệp
nào đó, và (b) một chân giảng viên hoặc giáo sư ở một trường đại học.
(Hai công việc này có thể chỉ có được sau một vài năm làm postdoc nữa . Ta hãy cứ gộp luôn postdoc vào tổng thời gian cho
tiện, mặc dù lương postdoc khá hơn lương gradudate students.)
Lương bổng và giá trị của vị trí mới phụ thuộc hoàn toàn vào
việc người ta đánh giá Ph.D như thế nào. Tôi sẽ bàn về
việc này trước. Tôi cũng có ý nói lan man vềđề tài "định trị
Ph.D" sau khi đọc một bản tin ở VNExpress thấy trong nước người ta có nói
về đánh giá Ph.D loại "giỏi, khá, trung bình" (sau một buổi họp nào
đó). Phạm vi "định trị Ph.D" của tôi chủ yếu áp dụng cho các nghành
kỹ thuật và khoa học tự nhiên như điện, điện tử, khoa học máy tính, toán, lý, ...
Khi xưa thì giá trị của một Ph.D mới ra trường tùy thuộc vào giá trị công trình
nghiên cứu trong luận văn tốt nghiệp. Sau khi ra trường thì
doctor mới sẽ phát triển công trình này thành một vài bài báo đăng ở các tạp
chí (journals) và hội nghị (conference) chuyên ngành. Các bài báo này
đều được phê bình (reviewed) bởi các chuyên gia đã trưởng thành trong cùng
ngành. Các bài báo không đóng góp gì nhiều hoặc vớ vẩn sẽ
không được nhận đăng.
Hiện nay thì áp lực đăng báo (publication) của graduate students khi còn đang
học lớn hơn gấp bội. Một công việc kha khá ở một trường đại học hay phòng
nghiên cứu danh tiếng thường nhận doctor mới với hơn chục bài báo. Trung bình
một giáo sư trẻ mới ra trường trong ngành khoa học máy tính có đến khoảng 3-5
journal papers và cả chục conference papers.
Dĩ nhiên số lượng là thứ yếu, chất lượng mới quan trọng.
Một công trình chất lượng cao sẽ được nhiều người biết đến
rất sớm, và có thể nói không ngoa là nó quan trọng hơn cả trăm bài báo dạng ...
"bổ củi". (Bổ củi là tính từ dân gian trong
giới khoa học Việt
Ðối với Ph.D ở Mỹ thì điểm học trung bình khi học Ph.D hầu như không mang ý
nghĩa gì cả, ngoại trừ điểm tối thiểu để có thể được tiếp tục học, khoảng chừng
3.3 đến 3.5 trên 4.0, tùy theo trường. Số lượng và chất lượng
các bài báo và các công trình nghiên cứu khác (một ứng dụng máy tính chẳng hạn)
mới là tiêu chí đánh giá Ph.D. Không có chuyện người ta xếp loại Ph.D trung
bình, yếu, giỏi, khá, vân vân. Lý do chính là: làm chuyện này hầu như là
vô vọng. Ai có đủ thẩm quyền và thời gian để đánh giá.
Kể cả giáo sư hướng dẫn chưa chắc đã biết hết về phân ngành
mà sinh viên của mình làm, huống gì người ngoài. Có
rất nhiều công trình đăng báo vài năm hoặc vài chục năm sau người ta mới thấy
hết giá trị của nó. Cũng có cả tỉ công trình lúc mới
đăng thì ai cũng xúm vào khen, nhưng vài năm sau thì lặng tăm.
Dĩ nhiên có khá nhiều các công trình mà người trong ngành đọc
biết ngay là "dỏm" hay "xịn". Nhưng
vấn đề chính là không ai có thời gian xếp loại và định trị Ph.D. Ở Mỹ, kinh tế
thị trường tương đối công bằng. Ph.D giỏi sẽ được đồng
nghiệp biết đến, tìm được việc ở các trường đại học và phòng nghiên cứu danh
tiếng, vân vân. Cũng có thể có Ph.D giỏi không tìm
được việc, hoặc Ph.D dỏm "lọt lưới" cung cầu. Các trường hợp này đều là ngoại lệ hiếm hoi.
Lại nói thêm về đăng báo. Ta hãy nhớ mục tiêu (b) của
Ph.D: đóng góp vào khối kiến thức của nhân loại. Ph.D mà không có bài báo nào
thì có 10 Ph.D cũng hoàn vô nghĩa, theo nghĩa tinh
khiết nhất của chữ Ph.D. Chí ít, Ph.D phải chia xẻ các thu lượm và nghiên cứu
của mình với đồng nghiệp ở một vài hội nghị và journal danh tiếng nào đó.
Các nhà xuất bản khoa học ở phương Tây cũng làm kinh tế.
Có rất nhiều các hội nghị và journals hạng bét, bài vớ va vớ
vẩn cũng đăng vào được. Chỉ có người trong ngành mới
biết được hội nghị và journal nào có uy tín. Mà kể cả
ở các nơi có uy tín này ta vẫn có thể tìm thấy các bài báo tồi.
Tóm lại, công việc "định trị Ph.D" hoàn toàn không
đơn giản chút nào. Áp lực phải đăng báo đè rất nặng lên
vai các gradudate students. Ngược lại, cảm giác công trình của mình được
đồng nghiệp công nhận và đánh giá cao cũng rất tuyệt vời!
Trong 5, 6 năm đầu sau khi ra trường, bất kể công việc là giáo sư hay nghiên
cứu viên, áp lực viết báo và xin tiền làm nghiên cứu còn nặng hơn khi còn là
sinh viên nữa.
(Ở đây ta loại trừ các trường hợp người ta chỉ muốn có Ph.D để theo đuổi nghề giảng viên (lecturer) nào đó. Có lẽ phải khẳng định rằng mục tiêu này cũng cao quí như các mục
tiêu "cạnh tranh khắc nghiệt" khác.)
Nếu Ph.D trẻ không khẳng định được mình trong 5, 6 năm đầu
tiên này thì thường là sẽ không giữ được công việc của mình. Có lẽ bạn đọc cũng có thể tưởng tượng được áp lực này nặng như thế
nào. Các bài báo đều là các công trình sáng tạo mà trước đó chưa có ai
làm, chưa có ai nghĩ ra (chí ít là về nguyên tắc). Làm thế nào mà ai đó có thể
đảm bảo một năng suất sáng tạo nhất định trong một thời gian dài như vậy? Có đáng bỏ ngần ấy thời gian và công sức cho một mục tiêu mà phần
thưởng về cả kinh tế, tinh thần, triết học, sức khỏe đều khá mập mờ?
Ta thử ghi ra đây một phần
nhỏ các lý do:
a) Bạn bè đều đi nước ngoài học sau đại học.
b) Ðược xã hội nể trọng, oách ra phết.
c) Ðể học được kiến thức tiên tiến.
d) Không rõ lắm. Từ bé học đã giỏi, thì cứ tiếp tục học.
e) Có lẽ là con đường duy nhất để cải thiện đời sống gia đình và cá nhân.
f) Ðể mở tầm mắt ra những chân trời mới.
g) Ðể sau này về làm giáo sư đại học.
h) Ðể được làm nghiên cứu khoa học.
i) Ðể thay đổi thế giới quan.
......
z) Tất cả các lý do trên.
Và z phẩy) Không làm Ph.D thì làm gì?
Ðối với đa số gradudate students và
graduate-students-tương-lai thì câu trả lời là một tập con khá lớn của vài tá
câu trả lời mà ai cũng có thể nghĩ ra.
Ta hãy thử phân tích vài chọn lựa quan trọng nhất.
Làm Ph.D để mở mang
kiến thức. Ðây là một mục tiêu rất quan trọng và
mang tính cá nhân. Mark Twain từng nói: "đừng để trường lớp cản trở
con đường giáo dục của bạn" (Don't let school get in the way of your
education). Trường lớp không phải là con đường duy nhất đến
Câu hỏi chính mà ta nên đặt ra là chỉ nên học M.S thôi, hay là học cả Ph.D. Chỉ
về kiến thức mà nói, thì hai năm M.S cũng đủ cho một sinh viên thông minh sau
đó tự học. Làm Ph.D cũng đa phần là tự học thôi.
Làm Ph.D để có một cuộc sống tốt đẹp hơn,
được xã hội nể trọng hơn; vì bạn bè ai cũng học Ph.D; có bằng Ph.D rất oách; từ
bé đã học giỏi thì cứ tiếp tục học; vân vân.
Một Ph.D thực thụ sẽ cho bạn biết rằng các lý do loại này đều là sai lầm to
lớn! Tôi hoàn toàn không có ý định "giảng đạo" về
chọn lựa cá nhân của ai. Tôi cũng không nói động cơ
"hám bằng cấp" hay "oai oách" là sai trái. Ðó là chọn lựa của từng cá nhân. Ðiểm tôi muốn nói là các
động cơ loại này sẽ không thể giúp sinh viên hoàn thành tốt việc học Ph.D. Việc
hay so sánh mình với bạn bè và người khác sẽ tạo nên áp lực tinh thần không thể
chịu nổi trong khi học. Yêu thích "tiếng tăm" cũng
vậy. "Học giỏi", theo nghĩa ở ta, là
thi thố điểm cao và "nhai lại" những gì được dạy, cho nên học giỏi
chưa chắc đã liên quan mấy đến khả năng sáng tạo - khả năng sống còn của Ph.D.
Từ khóa dẫn đến thành công của sinh viên Ph.D phải là “đam mê". Ðam mê học hỏi và
sáng tạo trong một phân ngành nhất định! Trừ những người thật sự xuất chúng thì
đa số chúng ta sẽ không thể làm thành công Ph.D ở một ngành nào đó chỉ vì
"xã hội cần nó", hay "nó kiếm ra tiền".
Nếu chỉ đam mê học hỏi không thôi thì cũng không đáng bỏ ra
ngần ấy thời gian để làm Ph.D. Ta hoàn toàn có thể làm M.S rồi tự đọc, tự học
thêm.
Tất cả các thành quả như chức vụ, danh tiếng, oai oách, vân vân đều phải, và
nên, là sản phẩm phụ của quá trình theo đuổi nỗi đam
mê sáng tạo và mở mang tri thức này.
Ðấy là nói về "động lực" học Ph.D. Thế còn
"khả năng" thì sao? Quá trình học Ph.D lên
xuống như hình sin. Sẽ có bao nhiêu trở ngại kinh tế,
tinh thần phải vượt qua. Một trong những trở ngại lớn nhất là: sau một
vài thất bại trong nghiên cứu, các sinh viên sẽ phải tự hỏi "ta có đủ khả
năng làm Ph.D không nhỉ?"
Ðam mê và khả năng tạo thành cái vòng luẩn quẩn. Ta có
xu hướng đam mê cái mà ta giỏi, và ta thường xuất sắc ở công việc mà ta đam mê.
Nhảy vào được cái vòng này là hành trình cá nhân. Có lẽ không ai trả lời thay ta được.
Không ít các
bậc phụ huynh mà tôi được dịp quan sát đặt rất nhiều kỳ vọng vào con em mình về
con đường hàn lâm. Họ đầu tư tiền
bạc và thời gian, nuôi niềm hy vọng ngày nào đó sẽ có một "trạng
nguyên" vinh quy bái tổ, nở mày nở mặt với hàng xóm láng giềng và bè bạn.
Chuyện này có ở tất cả các học bậc, không riêng gì Ph.D. Tuy vậy, áp lực ở Ph.D
lớn hơn khá nhiều vì graduate students sẽ phải cạnh tranh với các sinh viên
xuất sắc trên toàn thế giới.
Tôn trọng tri thức và học tập là điều tốt, và bằng cấp là một thước đo tương
đối chính xác của tri thức. Nhưng nó không phải là thước đo duy nhất. Ðó là
chưa nói đến các câu hỏi như: đạt được tri thức loại gì thì mới được coi là
"thành nhân"? Khó mà có thể đo lường xem một Ph.D và một anh đạp xích
lô ai có "đóng góp" nhiều hơn cho xã hội, hay ai "hạnh
phúc" hơn ai, theo bất kỳ nghĩa nào của các từ này. Có một ranh giới rất
bé giữa "tôn trọng tri thức" và "hám bằng cấp".
Hy vọng tôi đã hay sẽ thuyết phục được bạn rằng Ph.D cũng thượng vàng hạ cám. Một Ph.D về khoa học máy tính chẳng hạn, nếu làm nghiên cứu về một
phân ngành chẳng ai quan tâm, đăng vài bài báo ở các chỗ linh tinh, thì sẽ từ
từ xa rời dòng chảy chính của tri thức nhân loại. Có
không ít Ph.D về khoa học máy tính lập trình không ra hồn, thua hẳn một kỹ sư
thông thường, chính là vì lý do này.
Tôi lại triết lý 3-xu rồi. Ðiều tôi
muốn nói là niềm "hy vọng" của các bậc phụ huynh tạo áp lực cực lớn
ảnh hưởng đến kết quả học tập và nghiên cứu của sinh viên. Trong khi
chọn lựa nghề nghiệp tương lai đáng lẽ nên là chọn lựa cá nhân!
Còn khá
nhiều điểm khác tôi muốn nói, nhưng bài đã dài. Lấy Ph.D chỉ là bước đầu rất nhỏ
của một nghề nghiệp, cũng như bao nhiều nghề nghiệp khác. Có Ph.D có thể đồng nghĩa với những phần thưởng đáng quí về kinh tế
và tinh thần về cả mặt xã hội lẫn cá nhân, nhưng bù lại cái giá phải trả về mọi
mặt cũng cao không kém. "Nghề" Ph.D chẳng
cao quí hơn nhiều nghề khác, mà thời gian và công sức bỏ ra lại nhiều hơn khá
nhiều.
Cuộc sống và các chọn lựa cá nhân lẽ dĩ nhiên là phức tạp.
Tôi hy vọng qua bài viết này các bạn trẻ có thể có một cái nhìn và suy nghĩ cẩn
trọng hơn trước khi theo đuổi "con đường đau
khổ" này. Ta không thể theo nó chỉ vì các ảo
tưởng danh tiếng, bằng cấp và tiền bạc. Ðầu tư như vậy không có lãi!
Một trong những điều kiện cần cho nghề này là khả năng theo
đuổi nỗi đam mê nghiên cứu và sáng tạo trong một thời gian dài. Bằng Ph.D chỉ
là một bước cỏn con trong hành trình chông gai nhưng thú vị này. Nó hoàn toàn
không phải là con đường duy nhất.
Thứ bảy, 29 tháng 11, 2003.
NQH